Scholar Hub/Chủ đề/#cảm biến lực/
Cảm biến lực (hay còn được gọi là cảm biến tải) là một loại công cụ hoặc thiết bị được sử dụng để đo và ghi lại lực tác động lên một vật thể. Cảm biến lực sử dụ...
Cảm biến lực (hay còn được gọi là cảm biến tải) là một loại công cụ hoặc thiết bị được sử dụng để đo và ghi lại lực tác động lên một vật thể. Cảm biến lực sử dụng một loạt các nguyên lý vật lý khác nhau để chuyển đổi lực thành tín hiệu điện hoặc các thông số khác có thể được đo. Loại cảm biến lực phổ biến bao gồm cảm biến tải, cảm biến áp suất, cảm biến nén, cảm biến căng, cảm biến cân bằng lực,... Các ứng dụng của cảm biến lực phổ biến trong công nghiệp, đo lường và điều khiển, y tế, ô tô và hàng loạt các lĩnh vực khác.
Cảm biến lực được sử dụng để đo và ghi lại lực tác động hoặc áp lực được tạo ra bởi một vật thể. Các loại cảm biến lực khác nhau sử dụng các nguyên lý vật lý khác nhau để chuyển đổi lực thành tín hiệu đo. Dưới đây là một số loại cảm biến lực phổ biến:
1. Cảm biến tải (Load cells): Cảm biến tải chuyển đổi lực tác động thành tín hiệu điện. Nó bao gồm một thanh chắn mà khi lực tác động lên, nó uốn cong và tạo ra sự thay đổi trong điện trở. Thay đổi này được sử dụng để tính toán lực đang tác động lên cảm biến.
2. Cảm biến áp suất: Cảm biến áp suất đo và chuyển đổi áp suất thành tín hiệu điện hoặc analog. Các loại cảm biến áp suất bao gồm cảm biến áp suất ứng dụng cho chất lỏng hoặc khí và cảm biến áp suất phân cực.
3. Cảm biến nén: Cảm biến nén được sử dụng để đo lực nén hoặc lực tác động vuông góc vào mặt bề mặt của cảm biến. Thông thường, một đường cong đầu ra tuyến tính với lực hoặc áp suất được áp dụng.
4. Cảm biến căng: Cảm biến căng đo lực căng hoặc lực kéo. Chúng được sử dụng trong các ứng dụng như đo sức căng của cáp, dây và vòng bi.
5. Cảm biến cân bằng lực: Cảm biến cân bằng lực được sử dụng để đo lực theo hướng ngang và giúp giữ cho một vật thể ở trạng thái cân bằng hoặc giảm lực chuyển động.
Các ứng dụng của cảm biến lực là rất đa dạng, bao gồm đo lường lực trong quá trình sản xuất, đo lực tác động trong thiết kế ô tô, đo biểu đồ lực tại các thiết bị y tế, đo và kiểm soát lực trong khí cầu và nhiều lĩnh vực khác.
Tùy thuộc vào loại cảm biến lực cụ thể, các chi tiết cụ thể có thể khác nhau. Dưới đây là một số ví dụ về các loại cảm biến lực và cách chúng hoạt động:
1. Cảm biến tải (Load cells): Cảm biến tải được sử dụng rất phổ biến để đo lực trong công nghiệp và trong các ứng dụng hàng ngày. Nó bao gồm một cấu trúc cơ khí như thanh chắn hoặc trục tròn, và khi lực tác động lên, nó uốn cong theo một hướng cụ thể. Khi uốn cong, các cảm biến tải sử dụng các thiết bị chuyển đổi lực như các thanh gờ, giò cầu, hoặc các dây đàn hồi để chuyển đổi lực thành tín hiệu điện. Tín hiệu này được gửi đến một bộ chuyển đổi A/D (analog-to-digital converter) để chuyển đổi thành tín hiệu số, mà sau đó có thể được sử dụng để đo lực.
2. Cảm biến áp suất: Cảm biến áp suất đo lực tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên một diện tích nhất định trong một khu vực. Các loại cảm biến áp suất phổ biến bao gồm cảm biến áp suất đo áp suất chất lỏng hoặc khí trực tiếp sử dụng các thành phần như màng, biến dạng cầu, hay đổi điện dung để ghi lại thay đổi áp suất. Ngoài ra, cảm biến áp suất có thể sử dụng các nguyên lý khác như sự thay đổi của trở kháng, công suất, hoặc dòng điện với áp suất.
3. Cảm biến nén và cảm biến căng: Cảm biến nén và cảm biến căng thực hiện chức năng tương tự nhau, chỉ là hướng của lực tác động khác nhau. Cảm biến nén được sử dụng để đo lực tác động vuông góc vào mặt bề mặt của cảm biến, trong khi cảm biến căng được sử dụng để đo lực căng hoặc lực kéo. Cả hai loại cảm biến này thường sử dụng các thiết bị đo trực tiếp ghi lại sự thay đổi trong đôi gấp, biến dạng, hoặc giới hạn điện trở để xác định lực.
4. Cảm biến cân bằng lực: Cảm biến cân bằng lực được sử dụng để giữ cho một vật thể ở trạng thái cân bằng hoặc để giảm hiện tượng chuyển động. Cột cân bằng lực gồm một cần cân bằng đứng thẳng, và lực tác động lên cần này tạo ra một lực thông qua nón và thanh gờ. Sự thay đổi trong lực này được đo và ghi lại bằng cách đo giá trị điện trở hoặc các thông số khác của hệ thống cân bằng.
Như vậy, cảm biến lực rất đa dạng và tùy thuộc vào loại cảm biến mà bạn quan tâm đến, công nghệ và chi tiết hoạt động cụ thể có thể khác nhau.
Cảm biến glucose: Tổng quan về việc sử dụng trong thực hành lâm sàng Dịch bởi AI Sensors - Tập 10 Số 5 - Trang 4558-4576
Theo dõi glucose huyết đã được xác định là một công cụ giá trị trong việc quản lý bệnh đái tháo đường. Vì việc duy trì mức glucose huyết bình thường là điều cần thiết, một loạt các cảm biến sinh học glucose phù hợp đã được phát triển. Trong 50 năm qua, công nghệ cảm biến sinh học glucose, bao gồm các thiết bị theo dõi tại chỗ, hệ thống theo dõi glucose liên tục và hệ thống theo dõi glucose không xâm lấn đã được cải tiến đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức liên quan đến việc đạt được sự theo dõi glucose chính xác và đáng tin cậy. Cần có thêm cải tiến kỹ thuật trong các cảm biến sinh học glucose, tiêu chuẩn hóa các mục tiêu phân tích cho hiệu suất của chúng, và đánh giá cùng với đào tạo liên tục cho người dùng là những vấn đề cần thiết. Bài báo này xem xét lịch sử ngắn gọn, các nguyên lý cơ bản, hiệu suất phân tích và tình trạng hiện tại của các cảm biến sinh học glucose trong thực hành lâm sàng.
#Cảm biến sinh học glucose #theo dõi glucose huyết #bệnh đái tháo đường #công nghệ cảm biến #thực hành lâm sàng
Giám Sát Sức Khỏe Công Trình tại Trung Quốc Đại Lục: Đánh Giá và Xu Hướng Tương Lai Dịch bởi AI Structural Health Monitoring - Tập 9 Số 3 - Trang 219-231 - 2010
Công nghệ giám sát sức khỏe công trình (SHM) đã được ứng dụng thành công để hiểu rõ các tải trọng, điều kiện môi trường và hành vi của công trình chịu tác động của các yếu tố khác nhau thông qua việc giải quyết một bài toán ngược. Công nghệ cảm biến là một phần quan trọng của SHM. Trong bài báo này, sự phát triển của công nghệ cảm biến tiên tiến và các loại cảm biến tại Trung Quốc Đại Lục trong thập kỷ qua, như công nghệ cảm biến sợi quang, công nghệ cảm biến gốm piezoelectric (PZT) dựa trên lan truyền sóng, công nghệ cảm biến thông minh dựa trên xi măng, và công nghệ phát hiện ăn mòn, đã được xem xét một cách chặt chẽ. Ngoài ra, bài báo cũng tóm lược ứng dụng của các công nghệ SHM trong kỹ thuật động đất, kỹ thuật gió và đánh giá hiệu suất trong suốt vòng đời công trình, cùng những tiến bộ đạt được tại Trung Quốc Đại Lục. Những thách thức và xu hướng tương lai trong phát triển công nghệ cảm biến và SHM cũng được đề xuất trong bài báo này.
#giám sát sức khỏe công trình #cảm biến #công nghệ cảm biến #Trung Quốc đại lục #kỹ thuật động đất #kỹ thuật gió #ăn mòn #hiệu suất vòng đời #PZT #sợi quang #xi măng thông minh.
Biến thể về độ nhạy với fluconazole và kiểu nhân điện di trong các mẫu Candida albicans từ bệnh nhân AIDS mắc nấm miệng Dịch bởi AI Journal of Clinical Microbiology - Tập 32 Số 1 - Trang 59-64 - 1994
Phân loại phụ DNA bằng phương pháp điện di gel trường xung và kiểm tra tính nhạy cảm in vitro đã được sử dụng để nghiên cứu sự biến đổi chủng loại và độ kháng fluconazole trong các mẫu Candida albicans từ bệnh nhân bị AIDS đang điều trị azole (fluconazole và clotrimazole) cho bệnh nấm miệng. Tổng cộng có 29 bệnh nhân mắc 71 đợt nấm miệng. Nhìn chung, 121 mẫu C. albicans được thu thập trong quá trình điều trị từng nhiễm trùng đã sẵn sàng cho việc phân tích sâu hơn. Phân loại phụ DNA tiết lộ tổng cộng 61 loại phụ DNA khác nhau. Kiểm tra tính nhạy cảm in vitro của 121 mẫu bằng cách sử dụng các phương pháp tiêu chuẩn được đề xuất của Ủy ban Tiêu chuẩn Phòng thí nghiệm Lâm sàng Quốc gia cho thấy MIC của fluconazole dao động từ < hoặc = 0,125 đến > 64 microgram/ml. MIC cho 50% mẫu thử nghiệm là 0,25 microgram/ml, và MIC cho 90% mẫu thử nghiệm là 8,0 microgram/ml. MICs > hoặc = 64 microgram/ml chỉ có ở 7,4% mẫu thử nghiệm. Phần lớn (62%) bệnh nhân mắc nấm miệng và đang dùng azole bị nhiễm hoặc có nhiều hơn một loại phụ DNA, và việc xuất hiện hoặc chọn lọc những chủng có loại phụ DNA kháng cao hơn trong quá trình điều trị fluconazole không phải là hiếm. Ngoại trừ một trường hợp duy nhất, điều này dường như không có ảnh hưởng xấu đến kết quả lâm sàng. Ngược lại, đối với bệnh nhân AIDS và nấm miệng bị nhiễm một loại phụ DNA duy nhất của C. albicans, sự gia tăng MIC fluconazole cho chủng nhiễm bệnh chỉ là hiếm gặp trong suốt quá trình điều trị.
#Candida albicans #AIDS #nấm miệng #fluconazole #điện di gel trường xung #tính nhạy cảm in vitro #độ kháng #genotyping
ỨNG DỤNG VI ĐIỀU KHIỂN ARDUINO VÀ CẢM BIẾN LỰC ĐỂ CHẾ TẠO BỘ THÍ NGHIỆM KHẢO SÁT LỰC TỪ TÁC DỤNG LÊN ĐOẠN DÂY DẪN THẲNG CÓ DÒNG ĐIỆN Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu nhằm chế tạo một bộ thí nghiệm cho phép khảo sát lực do từ trường của một nam châm điện chữ U tác dụng lên dòng điện chạy trong các đoạn dây của một cạnh khung dây hình chữ nhật bằng cách sử dụng cảm biến lực và vi điều khiển Arduino. Bộ thí nghiệm có khả năng đo đạc giá trị lực tương tác từ tự động, liên tục với độ sai biệt giữa giá trị tính theo lí thuyết và giá trị đo thực nghiệm nhỏ hơn 10%. Vi điều khiển Arduino được lập trình để thay đổi góc hợp bởi từ trường và dòng điện một cách tự động. Tuy nhiên, sai số của phép đo còn lớn khi giá trị lực từ nhỏ hơn 2,5mN và việc ghi nhận số liệu thực nghiệm chưa được hoàn toàn tự động hoá. Nếu khắc phục được hạn chế này, bộ thí nghiệm có thể được sử dụng để giúp giáo viên phát triển năng lực vật lí cho học sinh về phần lực từ trong môn Vật lí 1 2 thuộc Chương trình giáo dục phổ thông 2018 .
#tương tác từ #dòng điện thẳng #Arduino #cảm biến lực #thiết bị thí nghiệm
PHÂN TÍCH BIẾN THỂ DI TRUYỀN THIẾU HOẠT ĐỘ ENZYME G6PD BẰNG KỸ THUẬT MULTIPLEX VỚI ĐỘ PHÂN GIẢI CAO TẠI VÙNG LƯU HÀNH SỐT RÉT CỦA TỈNH ĐĂK NÔNGThiếu hoạt độ enzyme Glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) là một rối loạn enzyme có ý nghĩa trong xây dựng chính sách điều trị sốt rét Plasmodium vivax. Điều trị với thuốc primaquine (PQ) có thể dẫn đến thiếu máu tan máu trên các bệnh nhân thiếu hoạt độ enzyme G6PD, do đó để dùng đủ liều PQ an toàn thúc đẩy loại trừ sốt rét P. vivax, cần đánh giá các biến thể di truyền thiếu G6PD mà có chính sách điều trị hợp lý. Phương pháp: Một nghiên cứu cắt ngang trên 2.809 người để định lượng hoạt độ enzyme G6PD bằng bộ cảm biến CareStart™ (AccessBio, Mỹ) và giải trình tự Sanger tìm các đột biến gen G6PD. Kết quả: Tỷ lệ thiếu hoạt độ enzyme G6PD chung ở quần thể nghiên cứu là 2,31% (65/2809), trong đó ở nam là 3,65% và ở nữ là 1,49%, có sự khác biệt về tỷ lệ thiếu hoạt độ enzyme G6PD giữa các nhóm dân tộc (p < 0,005). Với giải trình tự G6PD cho thấy biến thể Viangchan chiếm tỷ lệ cao nhất với 89,23% (58/65), tiếp đến là Mahidol là 6,15% (4/65) và một biến thể mới Canton là 4,62% (3/65), song các biến thể G6PD khác không hiện diện. Kết luận: Xét nghiệm định lượng hoạt độ G6PD nên được áp dụng trong thực hành điều trị tiệt căn sốt rét P. vivax, việc phát hiện các biến thể G6PD góp phần cho chính sách điều trị phù hợp.
#Hoạt độ enzyme G6PD; Plasmodium vivax #bộ cảm biến CareStart™ G6PD
ỨNG DỤNG CẢM BIẾN LỰC VÀ VI ĐIỀU KHIỂN ARDUINO ĐỂ THIẾT KẾ BỘ THÍ NGHIỆM KHẢO SÁT HỆ SỐ MA SÁT Bộ thí nghiệm kháo sát hệ số ma sát được thiết kế dựa trên việc sử dụng vi điều khiển Arduino và cảm biến lực. Với khả năng giao tiếp với máy vi tính thông qua kết nối bluetooth, dữ liệu thực nghiệm có thể được ghi nhận một cách liên tục và nhanh chóng; biểu diễn được quá trình chuyển tiếp giữa lực ma sát nghỉ và ma sát trượt. Từ đó, người sử dụng có thể tính được hệ số ma sát nghỉ và hệ số ma sát trượt giữa hai bề mặt vật liệu bất kì với độ sai biệt nhỏ hơn 10% so với bộ thí nghiệm hiện có trên thị trường. Bộ thí nghiệm góp phần hỗ trợ giáo viên và học sinh trong việc dạy và học kiến thức về lực ma sát trong chương trình Vật lí lớp 10 trung học phổ thông.
#cảm biến lực #hệ số ma sát #kết nối Bluetooth
Sử dụng thí nghiệm ghép nối máy vi tính trong dạy học bài định luật III Newton – Vật lí 10 nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh Bài báo này trình bày tiến trình dạy học (DH) định luật III Newton – Vật lí 10 với việc sử dụng bộ thí nghiệm ghép nối máy tính (dùng các cảm biến lực không dây WDSS và phần mềm Logger Pro) theo phương pháp thực nghiệm – giải quyết vấn đề (GQVĐ), trong đó tăng cường hoạt động nhóm nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh (HS). Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-priority:99;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:"Calibri","sans-serif";}
#định luật III Newton #cảm biến lực #thí nghiệm ghép nối máy vi tính (MVT) #dạy học giải quyết vấn đề
Cảm biến sinh học xác định ethanol trên cơ sở gluconobacter xylinus cố định trên màng vỏ trứngMột cảm biến vi sinh sử dụng máy đo pH và Gluconacetobacter xylinus cố định trên màng vỏ trứng đã được chế tạo. Cảm biến này cho tín hiệu tuyến tính với etanol trong khoảng 25-250 mM trong thời gian 50 s. Lượng tế bào vi khuẩn được cố định tối ưu trên màng cảm biến là 40 mg (trọng lượng ướt). pH ban đầu tối ưu là 7.0. Cảm biến sinh học này đã được sử dụng để xác định hàm lượng etanol trong các mẫu đồ uống có cồn khác nhau, và các kết quả này được so sánh với phương pháp chưng cất – chuẩn độ.Cảm biến vi sinh được đề xuất này có hiệu quả về mặt chi phí, cho kết quả nhanh và dễ sử dụng để xác định hàm lượng etanol trong các mẫu đồ uống chứa cồn có thành phần đơn giản.
#Gluconacetobacter xylinus #microbial biosensor #etanol #eggshell membrane
Phân Tích Khu Vực Đo của Cảm Biến Động Lực Từ Dipole Dịch bởi AI Measurement Techniques - Tập 60 - Trang 1046-1050 - 2018
Khu vực đo của một cảm biến động lực từ dipole đã được phân tích. Cảm biến được chế tạo dựa trên các ăng-ten vòng thu nhận đồng trục. Các hàm chuyển đổi đã được xác định cho một nguồn điểm của trường từ biến thiên, phụ thuộc vào vị trí của nguồn trong khu vực đo. Tỷ lệ tối ưu của các kích thước hình học của cảm biến để đạt được độ không đồng nhất tối thiểu của khu vực đo đã được xác định.
Điện hóa học trực tiếp của enzyme glucose oxidase trên vật liệu lai graphene sulfon hóa/ hạt nano vàng và ứng dụng của nó trong việc cảm biến glucose Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 17 - Trang 2487-2494 - 2013
Vật liệu lai graphene nanosheet sulfon hóa/hạt nano vàng (SGN/Au) đã được tổng hợp bằng cách tự lắp ráp tĩnh điện giữa SGN âm tính và các hạt nano vàng mang điện tích dương. Nhờ vào khả năng phân tán tốt của SGN trong dung dịch nước và điện tích âm đủ lớn, các hạt nano Au đã được lắp ráp đồng nhất trên bề mặt graphene với sự phân bố cao. Với những ưu điểm của cả graphene và các hạt nano Au, vật liệu lai SGN/Au đã thể hiện hoạt tính điện xúc tác cao hơn đối với quá trình khử O2. Hơn nữa, nó cung cấp một môi trường vi thể dẫn điện và thuận lợi cho việc gắn kết enzyme glucose oxidase (GOD), nhờ đó thúc đẩy sự chuyển giao electron trực tiếp tại điện cực carbon thủy tinh. Dựa trên sự tiêu thụ O2 do glucose gây ra tại giao diện của điện cực GOD được điều chỉnh bằng vật liệu lai SGN/Au, điện cực đã được sửa đổi hiển thị hiệu suất phân tích đáng hài lòng, bao gồm độ nhạy cao (14,55 μA mM−1 cm−2), giới hạn phát hiện thấp (0,2 mM), dải tuyến tính chấp nhận từ 2 đến 16 mM, cùng với khả năng ngăn chặn sự can thiệp từ một số thành phần khác. Những kết quả này chỉ ra rằng vật liệu lai SGN/Au đã được chuẩn bị là một ứng viên triển vọng cho cảm biến glucose hiệu suất cao.
#graphene nanosheet #hạt nano vàng #tự lắp ráp tĩnh điện #điện hóa học trực tiếp #cảm biến glucose